Vòng phong thủy hiện nay không còn quá xa lạ với nhiều người, với đủ chủng loại từ vòng đá, vòng gỗ…cho đến đủ kích thước 8mm, 10mm,… Mỗi loại vòng lại có số hạt tương ứng như 8mm thường là 21 hạt, 10mm là 19 hạt, 12mm là 17 hạt,… Những hạt vòng lại được lấy theo những quan niệm về phong thủy khác nhau như “sinh – lão – bệnh – tử”, “quái số” hay “phật pháp”.
Hôm nay Phong Thủy Huyết Long sẽ cùng mọi người tìm hiểu “ý nghĩa vòng phong thủy 18 hạt” theo quan niệm Phật pháp.
Ý nghĩa của các con số vòng phong thủy phật châu
Vòng phật châu tối thượng có 1080 hạt, loại vòng phật châu này bởi vì quá dài cho nên chỉ dùng cho số ít cao tăng đại đức cùng người tiềm tu sử dụng, hoặc trang trí trong các đại pháp hội của Phật giáo, ngoài ra cực ít người sử dụng.
Vòng phật châu thượng phẩm có 108 hạt ( Mật tông hành giả mang 110 hạt ), trung phẩm có 54 hạt, còn lại có 42 hạt, 21 hạt, 14 hạt cùng Tịnh Thổ tông 36 hạt, Thiền tông 18 hạt.
Số hạt vòng phật châu đều có nghĩa: 1080 Hạt, là bao gồm mười pháp giới; 108 hạt, là biểu thị 108 loại phiền não, hoặc 108 Tôn phật công đức, hoặc 108 Loại vô lượng tam muội…; 54 hạt, biểu thị cảnh giới tu thân; 42 hạt, biểu thị cho 42 giai vị trong quá trình tu hành của Bồ Tát, bao gồm Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác và Diệu giác.
27 hạt, biểu thị Thanh Văn chi 27 Thánh hiền; 21 hạt, biểu thị cho 21 giai vị, bao gồm: Thập địa, Thập ba la mật và quả Phật; 14 hạt biểu thị Bồ Tát Quan Âm cùng với tất thảy chúng sinh trong Thập phương, Tam thế, 6 cõi đồng nhất bi ngưỡng, khiến cho chúng sinh đạt được 14 cống đức vô úy.
Còn lại 36, 18 hạt phật châu, có chỗ vì để thuận tiện mang theo, phân 108 hạt thành 3 phần hoặc thành 6 phần mà thôi, cũng có nơi biểu thị theo ba mươi sáu Thiên Cương hoặc mười tám loại thần thông biến hóa.
Ý nghĩa vòng phong thủy 18 hạt phật châu
Tục gọi là “Thập bát tử”. Trong đó, ‘Thập bát” ý chỉ “Thập bát giới”, tức lục căn, lục trần, lục thức.
– Lục căn: (1) nhãn – mắt, (2) nhĩ – tai, (3) tỵ – mũi, (4) thiệt – lưỡi, (5) thân – cơ thể, (6) ý – ý nghĩ.
– Lục trần: (1) sắc trần – màu sắc, (2) thanh trần – âm thanh, (3) hương trần – mùi hương, (4) vị trần – vị giác, (5) xúc trần – cảm giác, (6) pháp trần – ký ức.
– Lục thức: (1) nhãn thức, (2) nhĩ thức, (3) tỵ thức, (4) thiệt thức, (5) thân thức, (6) ý thức.
Ý nghĩa 18 hạt Bồ Đề (Thập bát tử)
Phân biệt là: Hồng Bồ đề, Thiên Diệp Liên hoa, Thiên bảo, Ma thiền, Mật qua, Sa đằng, Phượng nhãn, Bán viên kim tuyến, Đại Kim ti, Bạch ngọc nha, Long nhãn, Thái Dương tử, Cầu Liên hoa, Thiên Ý tử, Từ Kim tuyến, hoa Bồ Đề, Kim Liên tử, Long châu đằng.
Thường nói: Mười tám hạt phật châu (Thập bát tử), ý là: Mười tám vị La Hán. Bao gồm:
- Vị La Hán thứ nhất – Tôn giả Bạt La Đọa
Ông vốn là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Đà. Sau khi xuất gia, ông thường cưỡi hươu về cung khuyên bảo quốc vương xuất gia. Sau này quốc vương thoái vị nhường ngôi cho Thái tử và đi tu. Vì vậy, ông được người đời gọi tên là “Tọa Lộc La Hán”.
- Vị La Hán thứ hai – Tôn giả Già Phạt Tha
Ông nguyên là một nhà hùng biện của Ấn Độ cổ đại. Có người từng hỏi ông: “Thế nào là vui?” Ông giải thích rằng: “Từ thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác, khứu giác mà cảm nhận được vị của niềm vui.”
Người ta lại hỏi ông: “Thế nào là khánh (mừng)?” Ông trả lời rằng: “Không do tai mắt mũi miệng tay mà cảm thấy vui thì đó là khánh, ví dụ như thành tâm hướng Phật, tâm cảm nhận thấy Phật thì vui.” Cho nên, người đời gọi ông là Hỉ Khánh La Hán.
- Vị La Hán thứ ba – Tôn giả Nặc Già Bạt Lý Đà
Ông là một vị hòa thượng hóa duyên. Phương pháp hóa duyên của ông không giống người khác mà là ông giơ bát lên cao để hướng về người xin ăn. Sau này thế nhân gọi ông là Cử Bát La Hán.
- Vị La Hán thứ tư – Tôn giả Tô Tần Đà
Ông là vị đệ tử cuối cùng của Phật Đà. Bởi vì tháp là tượng trưng cho Phật, vì tưởng niệm đã đi theo Phật Tổ nên ông tự đặc chế ra một cái tháp và mang theo bên mình. Vì vậy, người đời sau này gọi ông là Thác Tháp La Hán.
- Vị La Hán thứ năm – Tôn giả Nặc Cự La
Vị La Hán này vốn là một võ sĩ. Sau khi xuất gia, Sư phụ vì muốn ông vứt bỏ tính cách lỗ mãng khi xưa nên bắt ông ngồi tĩnh tọa. Khi ông ngồi tĩnh tọa liền hiện ra thể trạng đại lực sĩ, đây là lý do người đời sau gọi ông là “Tĩnh Tọa La Hán”.
- Vị La Hán thứ sáu – Tôn giả Bạt Đà La
Vị La Hán này vốn là một người bồi bàn của Phật Tổ, quản việc tắm rửa của Phật Tổ. Mẹ của ông sinh ông ở dưới gốc cây Bạt Đà La – một loài cây quý hiếm của Ấn Độ, nên đặt tên ông là Bạt Đà La. Sau này ông đi thuyền vượt sông vượt biển để truyền bá Phật giáo nên có tên là “Quá Giang La Hán”.
- Vị La Hán thứ bảy – Tôn giả Già Lực Già
Ông vốn là một vị thuần phục voi. Bởi vì năng lực và khả năng làm việc của voi lớn lại có thể nhìn xa. Vì vậy, người đời gọi ông với cái tên là Kỵ Tượng La Hán.
- Vị La Hán thứ tám – Tôn giả Phật Đà La
Ông nguyên là một thợ săn dũng mãnh, ngay cả hổ và sư tử cũng bị ông săn bắt. Sau khi xuất gia ông từ bỏ sát sinh nên khi được chứng quả La Hán, có hai con sư tử đi đến bên ông cảm kích ông đã buông bỏ dao kiếm. Sau khi thành đạo, ông đã đưa hai con sư tử bên mình nên mọi người gọi ông là “Tiếu Sư La Hán”.
- Vị La Hán thứ chín – Tôn giả Tuất Bác Già
Ông vốn là Thái tử Trung Thiên Trúc. Khi người em của ông muốn tranh đoạt ngôi vua với ông, ông nói: “Trong tâm ta chỉ có Phật, chứ không có Vương vị.” Hơn nữa, ông còn mở lồng ngực của mình ra, người em nhìn thấy quả nhiên trong tim ông có một vị Phật nên không làm loạn nữa. Cũng vì thế mà người đời gọi ông là “Khai Tâm La Hán”.
- Vị La Hán thứ mười – Tôn giả Bạn Nặc Già
Ông là người con được sinh ra ở ven đường. Ông là anh trai ruột của vị La Hán Khán Môn. Mỗi khi ngồi đả tọa xong, ông liền giơ hai tay lên đầu và thở dài một hơi, nên sau này được người đời gọi là “Thám Thủ La Hán”.
- Vị La Hán thứ mười một – Tôn giả La Hỗ La
Ông là người con trai duy nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni. Theo cha đi xuất gia làm một trong 10 đại đệ tử của Phật Đà. Ông được người đời gọi là “Trầm Tư La Hán”.
- Vị La Hán thứ mười hai – Tôn giả Na Già Tê
Ông vốn là một nhà lý luận. Vì luận “nhĩ căn” mà nổi tiếng thế nhân. Cái gọi là “nhĩ căn” chính là một trong số lục căn bao gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Lục căn là khí quan chủ yếu để chúng ta nhận thức thế giới.
Muốn thành Phật, lục căn phải thanh tịnh. Trong lục căn thì nhĩ căn sinh ra nhận thức. Cho nên nhĩ căn thanh tịnh là quan trọng nhất. Bởi vì vị La hán này có nhĩ căn thanh tịnh nhất nên khi tạc tượng trong Phật giáo thường đắp hình dáng của ông thành hình nhĩ căn. Vì vậy, người đời gọi ông là “Oạt Nhĩ La Hán”.
- Vị La Hán thứ mười ba- Tôn giả Nhân Già Đà
Ông vốn là người bắt xà ở Ấn Độ cổ. Khi đi bắt xà trong núi ông thường mang túi to để tránh cho người đi đường bị rắn cắn. Sau đó ông lại nhổ bỏ răng độc của chúng đi và thả vào rừng núi. Bởi vì phát thiện tâm và đắc được quả vị La Hán bên thân ông luôn có chiếc túi nên người đời gọi ông là “Bố Đại La Hán”.
- Vị La Hán thứ mười bốn- Tôn giả Phạt Na Ba Tư
Ông vốn là một người buôn bán. Ngày ông ra đời trời mưa rất to. Lá cây chuối ở hậu viện bị mưa rơi xuống kêu sột soạt nên mẹ ông đặt ông là Phạt Na Ba Tư (Tiếng Phạn có nghĩa là mưa). Sau này khi ông xuất gia thường hay đứng dưới cây chuối dụng công nên có tên là Ba Tiêu La Hán.
- Vị La Hán thứ mười năm – Tôn giả A Thị Đa
Ông vốn là một hòa thượng. Khi sinh ra ông đã có lông mày trắng dài rủ xuống, bởi kiếp trước ông chính là một hòa thượng tu hành, tu hành đến già, tóc đều rụng hết chỉ còn hai cọng lông mày dài.
Sau khi chết đầu thai chuyển thế, cọng lông mày này cũng được mang theo. Cha mẹ ông biết rõ ông là người tu hành cho nên lại đưa ông đi xuất gia. Cuối cùng ông tu thành La Hán và được thế nhân gọi là Trường Mi La Hán.
- Vị La Hán thứ mười sáu – Tôn giả Hán Đồ Bạn Trá Già
Ông là em của vị La Hán Thán Thủ. Sau khi xuất gia, mỗi lần ông đi hóa duyên đều dùng nắm tay gõ cửa từng nhà để họ ra bố thí. Phật cho rằng cách của ông không ổn nên đã ban cho ông một cây gậy tích trượng.
Lúc ông hóa duyên thì dùng cây gậy này rung lắc trước cửa, chủ nhà nghe thấy thanh âm này sẽ vui mừng mà ra cửa bố thí. Vì vậy ông được gọi là Khán Môn La Hán.
- Vị La Hán thứ mười bảy – Tôn giả Vi Khánh Hữu
Một tên ác ma ở Ấn Độ cổ đã xúi giục, kích động người dân ở nơi kia sát hại tăng nhân, hủy hết tượng Phật và đem hết kinh Phật cướp đi. Long Vương đã dùng nước bao phủ nơi đó và đem kinh Phật về long cung. Sau này Khánh Hữu đã hàng phục Long Vương, thu hồi kinh Phật. Cho nên, người đời gọi ông là Hàng Long La Hán.
- Vị La Hán thứ mười tám – Tôn giả Vi Tân Đầu Lô
Ông vốn là một tăng nhân. Bên ngoài chùa của ông thường có hổ gầm nên ông cho rằng hổ đói bụng.
Thế là, ông liền đem phần cơm của mình cho hổ ăn. Dần dà, hổ bị tấm lòng lương thiện của ông thu phục. Đây cũng là lý do mà mọi người gọi ông là “Phục Hổ La Hán”
Như vậy theo Phật pháp, vòng phật châu 18 hạt phong thủy mang ý chỉ lục căn, lục thức, lục trần của con người mà đại diện chính là 18 vị La Hán. Người đeo vòng phật châu có 18 hạt hãy luôn ghi nhớ “không nên để lục căn của mình quá tham”.
Mọi tội ác làm ra từ thời vô thủy đến nay, đều do lục căn tạo ra. Như, con mắt tham sắc, tai tham âm thanh, mũi tham hương, lưỡi tham vị, thân căn tham tiếp xúc với cái êm dịu và ý căn tham cảnh vui. Đã có tham thì có sân. Hợp cả ba loại thành “tham, sân, si” ba món độc kết hợp nhau, ác nhiều thiện ít.
Cho nên đeo vòng phong thủy 18 hạt phật châu được Đức Phật bảo hộ chỉ đường, kiếm chế “tham” của “lục căn” thì thành tựu sẽ không còn xa nữa.
Xem thêm:
Cho em hỏi em đeo vòng 18 hạt nhưng có thêm 1 hạt ở chỗ gút dây là tính 18 hay 19 ạ
18 thôi ạ
Mình mệnh kim giáp tý là nữ đeo vòng huyết rồng 18 hạt có hợp mệnh ko ạ
18 hạt là số hạt trong chuỗi niệm kinh châu của phật, đùng rất tốt đó ạ